Ẩm thực Hà Lan (tiếng Hà Lan: Nederlandse keuken) hình thành từ truyền thống nấu ăn của người Hà Lan ở vùng đất Nederlands ngày nay. Ẩm thực của quốc gia này hình thành từ vị trí của nó ở vùng đồng bằng Biển Bắc màu mỡ của Đồng bằng châu Âu, giúp đánh cá, trồng trọt và chăn nuôi, và mậu dịch bằng đường biển (Sự nổi dậy của Chủ nghĩa thực dân Hà Lan và buôn bán gia vị (Công ty Đông Ấn Hà Lan do Hoàng gia Hà Lan thành lập giao thương hàng hóa với thuộc địa do Hà Lan chiếm giử trong thế kỷ 17) phát triển.
Phong cách truyền thống của ẩm thực Hà Lan rất đơn giản, món ăn với nhiều loại rau và một chút thịt; bữa sáng và bữa trưa thường là bánh mì phủ với pho mát, trong khi bữa tối là thịt và khoai, bổ sung thêm rau theo mùa. Chế độ ăn có sản phẩm từ sữa và thường tương đối nhiều cacbohydrat và chất béo, phản ánh chế độ ăn cần thiết của người lao động mà có văn hoá đã ăn sâu vào đất nước này. Không có nhiều sự tinh vi, mộc mạc là từ tốt nhất để diễn tả, mặt dù nhiều kỳ nghỉ được tổ chức với các loại thức ăn đặc biệt.
Trong thế kỷ 20, ẩm thực Hà Lan và khẩu phần ăn thay đổi. Bị ảnh hưởng bởi văn hoá ăn uống của các thuộc địa của nó (cụ thể là Đông Ấn Hà Lan, một phần Sri Lanka, Đài Loan và Indonesia), nó trở thành đa văn hoá và ẩm thực quốc tế nhất thể hiện ở các thành phố chính.
Tuy không quá nổi trội trong nền ẩm thực Châu Âu nhưng những món ăn của Hà Lan lại chính là biểu tượng cho tinh thần giản dị, nồng hậu của người dân xứ hoa tuplip. Những món ăn của ẩm thực Hà Lan mang đậm nét mộc mạc, không cầu kỳ trong chế biến so với các nước Châu Âu khác.
Thời Trung cổ ẩm thực người Hà Lan cùng pháp triển với các sắc dân láng giềng như Đức, Pháp. Trải qua các biến đổi xã hội và phát triển kinh tế, người Hà Lan tập trung vào ba lãnh vực trong nước do điều kiện địa lý khiến họ chú trọng đến ba ngành này và trở nên ngành truyền thống phát triển mạnh của quốc gia Hà Lan đến ngày nay: Ngành chăn nuôi bò sữa và chế biến sản phẩm từ sữa, ngành trồng trọt làm vườn với rau, hoa , rau củ và ngành thương mại đường biển và đánh cá ra biển.
Ẩm thực hiện nay của Hà Lan bắt đầu hình thành khi Vương quốc Hà Lan đi vào thời kỳ hoàng kim trong thế kỷ 17, các món loại chế biến trong thời kỳ này được dùng bởi tầng lớp trung lưu giàu có, thường bao gồm nhiều loại hoa quả, pho mát, thịt, rượu vang và các loại hạt. Vương quốc Hà Lan cho phép nhập khẩu các loại gia vị, đường và hoa quả lạ. Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đầu tiên nhập khẩu cà phê quy mô lớn vào châu Âu. Sau đó người Hà Lan trồng những mùa màng ở Java và Ceylon. Cà phê Indonesia xuất khẩu lần đầu tiên từ Java đến Hà Lan diễn ra năm 1711. Cuối thế kỷ 17, lượng tiêu thụ trà và cà phê tăng lên và trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày. Trà được phục vụ với đồ ngọt, kẹo hoặc bánh quy và bánh hạnh nhân dẻ. Sự có mặt của những gia vị tương đối rẻ tạo nên một truyền thống về bánh quy gia vị gọi là speculaas, công thức chính xác của nó được giữ bí mật bởi những người làm bánh. Bánh này cũng ngày nay cũng phổ biến ở Bỉ và vùng lân cận biên giới Hà Lan củ nước Đức.
Các loại rau, thịt, gia cầm và cá tươi, muối hoặc hun khói và trứng được chế biến trong các nhà bếp ở Hà Lan vào thời gian này. Bữa ăn bắt đầu với salad rau và rau nấu nguội hoặc ấm với nước xốt, các món rau với bơ, rau thơm hoặc rau ăn được. Sau đó làm các món cá và thịt. Các loại nguyên liệu lạ như gạo, quế, gừng, saffron, quả chà là được sử dụng. Các loại bánh tart và pastry mặc theo sau đó. Bữa ăn kết thúc với thạch, pho mát, các loại hạt và bánh pastry ngọt và rượu vang gia vị ngọt. Tất nhiên, cả trong thời kỳ hoàng kim, không phải tất cả mọi người có thể chi trả cho những thứ xa xỉ và bữa ăn thông thường của người Hà Lan vẫn khá khiêm tốn gồm thịt hầm ngũ cốc hoặc legume dùng với lúa mạch đen.
Trong thế kỷ thứ 18 khoai tây trở nên phổ biến hơn, trở thành một sản phẩm thực phẩm chính năm 1800. Đầu những năm 1800, trong khi những người giàu có thể ăn thứ họ muốn, những người lao động ăn bánh mì (bánh mì đen) ở một số vùng) và khoai tây, bánh kếp ở một số vùng khá, đôi khi có cá và các loại hải sản khác, trái cây và rau, nhưng ít khi có thịt: “khẩu phần ăn của người Hà Lan trong thế kỷ thứ 19 bao gồm một ít bánh mì, rất nhiều khoai tây”. Chế độ ăn theo kiểu tiết kiệm, gồm các món đơn giản như bánh mì và cá trích. Trong suốt thế kỷ 19 nhiều người bị suy dinh dưỡng nhẹ.
Trên thực tế khoai tây thường được ăn mỗi bữa ăn, mỗi ngày trong tuần. Người ta gọt vỏ nó và luộc làm món chính, bữa trưa, và làm nóng nó rồi nghiền trong bữa tối, với phần thừa lại để cho bữa sáng. Người ta thường dùng nó với muối, đôi khi có giấm, nhưng không có nước thịt hay các chất béo khác, làm cho khẩu phần ăn trở nên “quá đơn điệu”. Khi đó thì người Đức đa dạng hóa được món ăn từ khoai tây thì ở Hà Lan cách nấu nướng vẫn rất đơn giản không có nhiều nguyên liệu khác được du nhập.
Trong thế kỷ 19, người nghèo ít khi uống thứ gì khác ngoài nước (chất lượng kém), đôi khi có cà phê loãng hoặc trà. Ở một số vùng người ta tiêu thụ sô cô la nóng, nhưng đồ uống phổ biến nhất ngoài nước là bia và rượu mạnh Jenever. Hầu hết cả thế kỷ này bia thường được uống ở vùng phía nam, nơi Công giáo thống trị, và các vùng đất công giáo khác. Loại bia này được lên men nổi và có chất lượng tồi; cho tới những năm 1880 khi loại bia pilsner lên men đáy kiểu Đức tiếp cận thị trường Hà Lan. Lượng tiêu thụ Jenever đầu thế kỷ 19 ở Hà Lan bằng hai lần lượng tiêu thụ đồ uống trưng cất ở các quốc gia lân cận.
Bước sang thế kỷ 20, vẻ vừa phải và khiêm tốn, món ăn chế biến đơn giản vẫn được coi là ẩm thực truyền thống của Hà Lan. Nhưng ẩm thực Hà Lan sau thế chiến thứ 2 ngày càng đa dạng hóa. Các món Indonesia và Indo trở nên phổ biến do trước đây là thuộc địa của Hà Lan và người lai Á-Âu có con cháu ở Hà Lan, đặc biệt là sau khi Indonesia độc lập từ sự đô hộ của Hà Lan năm 1949.
Có vô số món ăn Indonesia, một số trong đó cầu kỳ và nhiều món dễ làm và trở nên rất phổ biến nên chúng có thể được coi là ‘món ăn quốc gia'”. Như món Nasi goreng (cơm rang), Pisang goreng (chuối nướng), Lumpia goreng (nem rán), Bami goreng (mì xào), Satay (thịt xiên nướng), xốt satay (nước xốt lạc), và Sambal oelek (tương ớt). Trong các món kết hợp Indonesia-Hà Lan món được biết đến nhiều nhất là Rijsttafel (“Tiệc bàn cơm”), là một bữa ăn thịnh soạn bao gồm nhiều (lên đến hàng tá) món nhỏ (do đó lấp đầy cả mặt bàn). Trong khi nó phổ biến ở Hà Lan, Rijsttafel bây giờ trở nên hiếm ở Indonesia, trong khi bây giờ ở hầu hết các thị trấn Hà Lan đều có các nhà hàng Indonesia gốc Hoa. Một món kết hợp phổ biến là Friet saté hoặ Patatje pinda, khoai tây rán với xốt satay làm gia vị, dùng ở hàng đồ ăn nhẹ.
Ẩm thực Suriname cũng phổ biến ở Hà Lan, đặc biệt là các thành phố lớn. Các quán Suriname thường cung cấp roti, sản phẩm chính của cộng đồng người Hindustani ở Suriname, nhiều phiên bản Suriname của Ẩm thực người Indonesia gốc Hoa, cũng như bánh kẹp Suriname (Surinaamse broodjes).
Từ ẩm thực từ quốc tế như Pizzeria kiểu Ý và Mỹ đã trở nên phổ biến rộng rãi. Trong những thập kỷ gần đây, các món Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ cũng ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là đồ ăn nhẹ. Trong các thị trấn và thành phố lớn hơn, những nhà hàng nhỏ bán kebab, shoarma và falafel có thể được thấy ở bất cứ góc phố nào. Ngày nay, đồ ăn từ mọi nơi trên thế giới đều có thể được thấy ở quốc gia này, đặc biệt là các thành phố lớn, bao gồm Hy Lạp, Thái Lan, Nhật Bản và kể cả ẩm thực châu Phi.
Thói quen ăn uống người Hà Lan
Bữa ăn sáng và ăn trưa
Bữa sáng và bữa trưa khác nhau một chút trong ẩm thực Hà Lan và cả hai cùng bao gồm bánh mì với nhiều loại thịt nguội, pho mát và các loại đồ ngọt phủ bên trên; như là hagelslag, vlokken, muisjes, gestampte muisjes, đồ phết sô cô la, nước mật đường (một loại xi-rô đặc, tối màu), bơ táo và bơ lạc. Hà Lan nổi tiếng với các sản phẩm từ sữa đặc biệt là pho mát. Hầu hết các loại pho mát Hà Lan là cứng hoặc cận cứng. Các loại pho mát Hà Lan nổi tiếng bao gồm Gouda, Edam, và Leyden. Một cách làm pho mát điển hình của Hà Lan là trộn rau thơm với các gia vị trong giai đoạn sản xuất đầu tiên. Các ví dụ nổi tiếng là pho mát với đinh hương (thường là đinh hương Friesia), Thì là Ai Cập (nổi tiếng nhất là pho mát Leyden), hoặc tầm ma.
Các loại bánh mì Hà Lan thường khá rỗng, vì nó được làm từ men bột nhào. Từ những năm 1970 trở đi bánh mì Hà Lan trở nên chủ yếu là nguyên cám, thêm với các loại hạt như hạt hướng dương hoặc hạt bí ngô thường được trộn vào bột nhào để thêm vị. Bánh mì lúa mạnh đen là một trong số ít các loại bánh mì đặc ở Hà Lan. Bánh mì trắng từng là loại bánh mì xa xỉ, othường được làm với sữa thay vì nước. Một phiên bản xa xỉ từ Frisia của bánh mì trắng là suikerbrood, bánh mì trắng trộn với những cục đường trong bột nhào. Kerststol là loại bánh mì Giáng Sinh Hà Lan truyền thống là từ bột nhào với đường, hoa quả khô, nho khô, tương hạnh nhân; và lý chua, và vỏ chanh và cam; nó thường được thái ra và phết với bơ.
Ontbijtkoek có thể được ăn thay cho một bữa sáng hoàn chỉnh, hoặc đơn giản là một bữa ăn nhẹ. Nó được dùng theo dạng từng lát, phết với bơ.
Thời gian uống trà/cà phê
Người Hà Lan thường mời bạn bè koffietijd (giờ uống cà phê), nó bao gồm cà phê và một cái bánh ngọt hoặc bánh quy, khoảng từ 10 đến 11 giờ sáng (trước bữa trưa), 4:00 giờ tối (giữa bữa trưa và bữa tối) hoặc từ 7 đến 8 giờ tốit (sau bữa tối). Người Hà Lan uống cà phê và trà cả ngày, thuwofng được dùng cùng với một cái bánh quy. Sự tiết kiệm của người Hà Lan dẫn đến quy tắc tiêu chuẩn nổi tiếng chỉ một chiếc bánh quy với mỗi tách cà phê. Người ta cho rằng nguyên nhân của việc này là do tâm lý theo đạo Tin Lành và sự giáo dục ở miền bắc Hà Lan. Những người theo Công giáo La Mã phía nam không có trung truyền thống này ví dụ như ở Limburg, họ dùng vlaai lớn (bánh ngọt có nhân), cắt thành tám mảnh, là truyền thống mà du khách thường thấy.
Một câu truyện phổ biến của Hà Lan (chưa bao giờ được chứng thực) kể rằng cuối những năm 1940 vợ của thủ tướng thời bấy giờ, Willem Drees, phục vụ cà phê với một chiếc bánh quy cho nhà ngoại giao người Mỹ, người mà sau đó đã được thuyết phục rằng tiền sử dụng cho Kế hoạch Marshall là xứng đáng.
Café au lait cũng rất phổ biến. Nó được gọi là Koffie verkeerd (nghĩa đen là “cà phê sai sót”) và có tỉ lệ cà phê đen và sữa nóng bằng nhau. Người Hà Lan uống trà không sữa và trà loãng hơn nhiều so với trà điển hiền của Anh và Ireland, loại mà thường được uống với sữa. Các loại đồ uống nóng khác bao gồm nước chanh ấm, gọi là kwast (nước ấm với nước chanh), vàanijsmelk (sữa nóng với tiểu hồi cần). Trong mùa thu và đông sô cô la nóng hoặc sữa sô cô la được uống rất phổ biến. cả anijsmelk và kwast đều hiếm khi được uống và đã mất đi sự phổ biến.
Borreltijd
Giữa 4:00 và 5:00 giờ tối là thời gian cho đồ uống có cồn, bia hoặc rượu vang, và một món ăn nhẹ mặn. Dây là thời gian mà ‘Bitterballen’ nổi tiếng được phục vụ. Một biến thể nhỏ của ‘kroket’, ra gu viên chiên ngập dầu có bột chiên bọc bên ngoài. Người ta dùng nó với mù tạt. Borreltijd hầu như diễn ra vào cuối tuần.
Theo truyền thống bữa tối được dùng sớm với tiêu chuẩn quốc tế, bắt đầu lúc khoảng hoặc thậm chí là trước 6 giờ. Bữa tối kiẻu cũ của Hà Lan bao gồm một món đơn giản: khoai, thịt và rau — được biết đến với tên gọi tắt là AVG (aardappelen, vlees, groente). Theo truyền thống lượng lớn khoai tây được ăn cùng với một phần thịt nhỏ với nước xốt thịt, hoặc một món rau hoặc khoai tây hầm. Rau hầm được dùng làm món ăn thêm ví dụ như rodekool met appeltjes (bắp cải đỏ với táo), hoặc rode bieten (củ cải). Các gia vị thường được sử dụng trong món hầm này có thể là nguyệt quế, quả juniper, đinh hương, và giấm, mặc dù các các loại gia vị mạnh thường ít được sử dụng. Các món hầm thường được dùng với đồ muối, bao gồm augurken (dưa chuột muốn) hoặc cocktail hành tây (zilveruitjes). Vì ảnh hưởng của các quốc gia khác sợ phổ biến của bữa ăn truyền thống đang mất dần đi. Stamppot, khoai tây nghiền với rau, theo truyền thống được ăn trong mùa đông. Nếu có món khai vị, nó thường là súp.
Bữa ăn tối
Danh sách các món ăn dưới đây có nguồn gốc trong lịch sử và thường phổ biến với người lao động. Trong thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 người lao động làm việc 10 đến 16 tiếng ngoài đồng hoặc nhà máy không có lò sưởi, nên các món ăn này thường giàu calo và chất béo để cung cấp năng lượng cho người lao động.
Món tráng miệng
Một loại đồ ngọt nổi tiếng của Hà Lan là zoute drop, (nghĩa đen là “kẹo cam thảo mặn”) và các loại kẹo cam thảo ngọt. Loại đồ ngọt này nhỏ, có màu đen và nhìn giống kẹo cao. Giống với bánh Pontefract ở hạt Yorkshire, Anh. Bốn loại drop là ngọt mềm, mặn mềm, ngọt cứng và muối cứng. Có thể mua kẹo cam thảo ở cửa hàng hoặc hàng thuốc. Nó cũng có chức năng chữa bệnh và nó có thể chữa các triệu chứng về cổ họng và đau bụng. Drop của Hà Lan được bán trong rất nhiều hình dáng khác nhau. Khi nó có hương vị dừa người ta gọi nó là Engelse drop (nghĩa đen là “kẹo cam thảo của Anh”). Các loại khác được làm với mật ong (honingdrop), bạc hà (muntdrop), amoni clorua (salmiakdrop), hoặc nguyệt quế (laurierdrop). Các dạng điển hình là hình kim cương, bầu dục, thuôn và đồng xu. Hình tổ ong cho drop mật ong cũng phổ biến. Một số nhà sản xuất có giới thiệu những mẫu đặc biệt của drop được làm theo chủ đề, như là ô tô (autodrop), động vật và máy móc nông nghiệp (boerderijdrop), vân vân.
Một món ngọt phổ biến khác của Hà Lan là Stroopwafel (“stroop” nghĩa là xi rô). Một loại bánh waffle mỏng, thường được làm trong chảo pizelle, nó được thái ngang và dùng làm bánh kẹp nhân xi rô (stroop). Thỉnh thoảng, hạt phỉ nghiền cũng được trộn với stroop, và phần bột làm bánh có thêm quế.
Một trong những loại đặc sản đồ ngọt của Hà Lan là vlaai. Là một loại bánh pie ngọt được làm với men nhào và nhân trái cây (như là táo, mơ, dứa, mận) hoặc quả mọng. Các nguyên liệu khác có thể gồm custard và đại hoàng. Vlaais gạo, nhồi với nhân kem béo cũng khổ biến. Nó có thể được gắn thêm với trái cây, kem béo hoặc sô cô la.
Letterbanket là một loại bánh pastry hoặc bánh quy theo truyền thống được ăn vào cookie that is traditionally eaten on Ngày Thánh Nicholas (ngày 6 tháng 12, nhưng được tổ chức bằng một bữa tiệc của trẻ em vào ngày 5 tháng 12 và vào Đêm Giáng Sinh ở Hà Lan.
Vla (custard vani) thường được trộn với sữa chua (đôi khi là sữa chua và xi-rô).
Broodpap, một loại cháo yên mạch bánh mì làm từ bánh mì cũ, sữa, bơ và đường.
Griesmeelpudding, một loại pudding ngọt làm từ semolina và được dùng với nước hầm quả mọng đỏ.
Poffertjes, là một loại bánh được làm từ nấm me, đường, bột kiều mạch và bơ xay nhuyễn. Cách chế biến của nó gần giống với bánh rán của Việt Nam. Tất cả các nguyên liệu này sẽ được nhào chung với nhau thành một hỗn hợp dẻo quánh, sau đó nặn thành từng viên nhỏ rồi chiên vàng giòn lên.
Appeltaart là loại bánh ngọt truyền thống ở Hà Lan. Người dân Hà Lan nói rằng bánh Appeltaart ngon nhất là ở Papeneiland và Winkel. Đây là một trong mười món ăn bạn nên thử khi đi du lịch Hà Lan tiết kiệm.
Món bánh này được làm với bột bánh, táo cắt lát, quế, đường và nước chanh. Đây là món ăn yêu thích của người dân Hà Lan bởi nó rất giòn và không quá ngọt.
Bánh Oliebollen là một loại bánh không thể thiếu trong bữa tiệc đón năm mới của người dân Hà Lan. Bánh được chế biến từ bột mì làm vỏ bánh với nhân bên trong là các loại quả hoặc hạt như nhân táo, nhân dứa, nhân nho hoặc các hạt hạnh nhân. Những chiếc bánh sau khi được nặn và tạo hình sẽ được chiên trong những chảo dầu ngập mỡ để bánh phồng lên, có màu vàng ruộm đẹp mắt. Bánh Oliebollen là niềm tin của người Hà Lan vào một năm may mắn, hạnh phúc, thật nhiều điều tốt lành.
Các món ngọt khác của Hà Lan
Grutjespap
Haagse bluf
Hangop
Karnemelksepap
Rijstebrij (pudding gạo)
Krentjebrij (còn gọi là watergruwel)
Jan in de zak
Đồ uống có cồn
Rượu vang chỉ có một vai trò vừa phải trong ẩm thực Hà Lan, nhưng có nhiều hãng bia và rượu mạnh. Những nhà sản xuất Bia Hà Lan nổi tiếng nhất là Heineken ở phía tây, Grolsch ở phía đông, Alfa và Bavaria ở phía nam. Theo truyền thống, Noord-Brabant và Limburg có truyền thống bia lớn, họ ủ nhiều loại bia khác nhau (khác không như bia Bỉ). Các thành phố Hà Lan ở phía tây cũng từng có một truyền thống ủ bia lớn, nhưng trong thế kỷ 20, những nhà máy bia lớn chiếm những nhà máy nhỏ và cung cấp bằng cho họ để bán những loại bia lớn, và dừng việc sản xuất lạ. Trong thế kỷ 21, nhiều nhà máy bia siêu nhỏ được thành lập, ủ bia lên men nổi trong nhiều kiểu. Tính đến tháng 9 năm 2013, có 184 nhà máy bia đang hoạt động ở Hà Lan.Các kiểu phổ biến bao gồm bia bốc, bia thầy tu, bia nâu và bia lúa mạch.
Trong các loại rượu đắng, Beerenburg là loại nổi tiếng nhất. Rượu mạnh bao gồm Jenever (rượu vang mạch nha trưng cất và là tiền thân của Gin), Brandewijn (brandy) và Vieux (brandy Hà Lan, một loại làm giống theo Cognac), và có cả Kandeel (làm từ vang trắng), Kraamanijs (một loại rượu mạnh làm từ hạt hồi), Oranjebitter (một loại brandy vị cam, theo truyền thống được phục vụ ở các lễ hội trong những is traditionally served on festivities surrounding the gia đình hoàng gia), Advocaat, Boerenjongens (nho khô trong brandy), và Boerenmeisjes (mơ trong brandy).
Các món ngon và phổ biến của ẩm thực Hà Lan
Phô mai
Nhắc đến các món ngon Hà Lan người ta nghĩ ngay đến phô mai – món đặc sản của đất nước hoa tulip được cả người dân bản địa và khách du lịch ưa chuộng. Phô mai được làm từ sữa nguyên chất, ở Hà Lan món ăn này nổi tiếng vì hương vị thơm ngon, béo mà không ngấy.
Ngày nay, Hà Lan là quốc gia xuất khẩu phô mai lớn nhất trên thế giới. Du khách tới Hà Lan muốn thưởng thức phô mai không nên bỏ qua các chợ phô mai tại Alkmaar, Hoorn hay hòa mình vào các lễ hội ẩm thực để có cơ hội thưởng thức hàng trăm loại phô mai khác nhau như Beemster,Boerenkaas,Edam, Graskaas, Gouda, Leerdammer , Leyden, Limburger, Maaslander, Maasdam, Nagelkaas v.v.
Bitterballen
Bitterballen là tên gọi của món thịt viên kích cỡ như bò viên Việt Nam chiên giòn Thịt được ướp cùng một chút mù tạt, chiên vàng giòn trong chảo dầu , ăn kèm với khoai luộc, bánh mứt hoặc đậu Hà Lan hầm.
Stamppot
Người Hà Lan cực kỳ chuộng khoai tây nghiền và đó là lý do mà rất nhiều món khoai tây nghiền với vô số biến tấu khác nhau ra đời tại xứ sở cối xay gió. Stamppot là món khoai tây nghiền ăn kèm với một số loại rau khác như cà rốt, hành tây, cải xoăn, cải bắp, đôi khi thêm một vài chiếc xúc xích hun khói bên trên. Món ăn này nổi bật vì sự giản dị, kết hợp hài hòa các loại rau củ bổ dưỡng và xúc xích béo ngậy.
Kibbeling
Kibbeling là cá tuyết tẩm bột chiên Kibbeling. Đây là món ăn đặc sản ở Amsterdam vào mùa tuyết rơi và hút khách với độ giòn của lớp bột chiên cũng như độ béo của nhân cá bên trong. Món này ăn kèm với nước sốt mayonnaise và nước sốt chanh
Thick Dutch fries
Thick Dutch fries là khoai tây chiên kiểu Hà Lan, một món ăn đường phố cũng được ưa chuộng không kém các món trên. Khoai tây không gọt vỏ, thái miếng tương đối dày rồi chiên vàng giòn lên, ăn kèm với các loại sốt. Đặc biệt, khoai tây ở đây luôn được chiên hai lần để giữ được độ giòn lâu nhất có thể. Món này có tận 22 loại sốt ăn kèm như sốt đậu phộng, sốt trứng gà, sốt cay, sốt rau v.v.
Snert
Snert là một trong những món súp quen thuộc của Hà Lan với nguyên liệu là đậu, thịt lợn, hành cần tây, tỏi sẽ được băm nhỏ và hầm nhừ với nhau thành một hỗn hợp súp sền sệt không quá đặc với một hương vị đậm đà khá ngon. Món ăn này được ăn khi còn nóng nhất là trong mùa đông, đây cũng là một trong những món ăn ngon nổi tiếng ở Hà Lan.
Raw herring
Đây là món ăn cực kỳ phổ biến trên các đường phố Amsterdam vì vừa rẻ tiền vừa ngon miệng.
Món ăn thú vị này làm từ cá trích. Cá trích tươi được đầu bếp làm sạch, ướp cùng chút muối và ăn kèm hành tây thái lát mỏng với dưa chuột muối chua. Món ăn này có hẳn một cách thưởng thức đúng điệu, đó là dốc ngược cá và cho vào miệng toàn bộ. Chính vì vậy, tất cả các nguyên liệu hòa quyện với nhau tạo ra hương vị và trải nghiệm ẩm thực thú vị. Tuy nhiên không phải người dân Châu Á nào cũng có thể thưởng thức món ăn sống này.